(Nhiều khi tự hỏi Từ đâu
Thế rồi lọ mọ bắt đầu... ngày xưa)
Lộc Tục - thủy tổ nước ta
Vị vua tên gọi ấy là Kinh Dương (Vương)
Xích Quỷ - nghe lạ khác thường
Nhưng là quốc hiệu khởi nguồn giang sơn
Kinh Dương Vương có người con
Tên là Sùng Lãm tài hơn người trần
Đó chính là Lạc Long Quân
Âu Cơ là vợ - con thần Đế Lai
Nàng sinh bọc trứng trăm trai
Nhưng vì khắc mệnh cả hai chia rời
Năm mươi theo bố non rời
Về nơi biển cả là nơi của rồng
Còn lại theo mẹ về rừng
Là nơi tiên ở non bồng trên cao
Cho dù xa cách xiết bao
Nhưng ta vẫn chỉ “đồng bào” mà thôi
Con trai theo bố nối ngôi
Thành Vua Hùng vốn người đời không quên
Vua Hùng lập nước Văn Lang
Với bao câu chuyện ta mang đến giờ
Mai An Tiêm với quả dưa
Chàng Lang Liêu kính dâng vua bánh dày
Thủy Tinh gọi nước dâng đầy
Đánh Sơn Tinh đến mấy ngày vẫn thua
Thần thoại lí giải nắng mưa
Chuyện tình đâu đó… từ xưa vẫn còn
Vì tình nước mất nhà tan
Chuyện Mị Châu có ai quên bao giờ
Nỏ thần – bí mật cơ đồ
Một khi lộ, nước sa cơ là thường
Là thời Thục Phán An Dương (Vương)
Vua xây thành tường, nước có kim quy
Và rồi tự chủ mất đi
Nước ta Bắc thuộc từ khi Triệu Đà
Câu chuyện sâu ý ông cha
Nước mất không phải đã là hết yêu
Sâu xa ẩn dụ một điều
Lịch sử phải nhớ dõi theo cội nguồn
Nghìn năm Bắc thuộc đau thương
Nhục mất nước, thêm quật cường ông cha
Vùng dậy dành lại nước nhà
Bà Trưng (40) đánh Hán – bài ca oai hùng
Lí Bí (541, Lí Nam Đế) đánh Tống 3 lần
Lập nước tên gọi Vạn Xuân bấy giờ
Triệu Quang Phục (550) nối ngôi vua
Đánh Lương, xưng đế gọi là (Triệu) Việt Vương
Nghìn năm Bắc thuộc đau thương
Vùng lên, dù bại, quật cường người Nam
Và rồi lịch sử sang trang
Nước tự chủ - Bạch Đằng giang Ngô Quyền (938)
Nam Hán thua trận chiến thuyền
Bắc thuộc chấm dứt. Nghìn phiền đã qua
Lập nước rồi giữ nước nhà
Đến Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Tiên Hoàng, 968) nước đà thay tên
Đại Cồ Việt : lớn, chủ quyền
Tinh thần tự chủ trong tên huy hoàng
Tên vẫn thế lúc Lê Hoàn
Tiền Lê kế Vệ Vương Toàn cũng nhanh
Bắt đầu bằng Lê Đại Hành (980)
Đánh đuổi quân Tống, giữ thành bình an
Rồi đời nhà Lý (1009) bước sang
Khi Lê Long Đĩnh (Lê Ngọa Triều) dân cam hận nhiều
Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ, 1009) được dân yêu
Vì đã giữ vững, mở nhiều giang sơn
Dời đô khỏi chốn vùng non
Từ Hoa Lư đến thành rồng Đại La
Thăng Long từ ấy mới ra
Tên xưa Hà Nội của ta bây giờ
Lý Thánh Tông (1054), đời thứ ba
Đổi tên nước – Đại Việt ta ra đời
Văn, Phật, Nho giáo lên ngôi
Văn Miếu, Quốc Tử Giám thời còn nay
Nhà Trần (1225) kế Lý dựng xây
Đánh giặc giữ nước, giỏi thay tướng Trần
Đánh dẹp Mông - Nguyên 3 lần
Hưng Đạo Vương (Trần Quốc Tuấn) – tướng công thần nước Nam
Và rồi Trần cũng suy tàn
Lịch sử trang mới chuyển sang nhà Hồ
Hồ Quý Ly (1400) cướp ngôi vua
Chuyển tên nước gọi Đại Ngu: yên bình (nghĩa)
Nhà Hồ thua bại giặc Minh
Hậu Lê (Lê Lợi – Lê Thái Tổ, 1428) kế tục, đuổi Minh ra ngoài
Bình Ngô Đại Cáo tuyệt vời
Bản tuyên ngôn độc lập thời khắc ghi
Đại Việt – tên nước trước kia
Được khôi phục lại và duy trì dài
Hậu Lê thời tách làm hai
Lê Sơ ngắn (100 năm), Lê dài: Trung hưng (256 năm)
Lê Sơ – vĩ đại, hoàng kim
Là thời phong kiến thịnh bình nhiều công
Đặc biệt thời Lê Thánh Tông
“Thóc ruộng đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”
Lê Sơ cũng lụn dần dần
Khi Mạc phế truất vua Lê Cung Hoàng
Nhà Mạc với Mạc Đăng Dung
Tồn tại ngắn, Lê trung hưng trở về
Triều đại dài nhất trước kia
Dưới thời phong kiến trị vì nước Nam
Bắt đầu với Lê Trang Tông
Được hậu thuẫn bởi công thần Nguyễn Kim
Mở rộng lãnh thổ, giang sơn
Chữ S dần trọn vẹn hơn ban đầu
Và rồi Trịnh – Nguyễn phân tranh (1527)
Khi Lê suy yếu, mang thân bù nhìn
Để rồi đất nước hai bên
Sông Gianh (Quảng Bình) - biên giới dựng lên bất ngờ
Đằng trong Nguyễn dựng cơ đồ
Đằng ngoài chúa Trịnh phất cờ dương oai
Vua Lê danh vị không ngai
Mặc cho Trịnh Nguyễn tác oai lộng hành
Làm cho dân khổ chúng kinh
Nổi dậy chống đối chiến tranh bao lần
Chỉ đến Nguyễn Huệ (1789) dấy quân
Tây Sơn bùng nổ dập tan lộng quyền
Thống nhất đất nước hai miền
Bãi bỏ Lê Hậu xưng liền đế vương
Quang Trung – vua của nông dân
Lấy vợ - công chúa Ngọc Hân dịu dàng
Mở mang bờ cõi giang san
Đánh bại Xiêm (5 vạn) lẫn Mãn Thanh (29 vạn) mới tài
Anh hùng áo vải tuyệt vời
Niềm tự hào của muôn đời về sau
Nguyễn Huệ mất chẳng bao lâu
Tây Sơn yếu, Nguyễn lại mau trở về
Nguyễn Phúc Ánh lấy ngôi vua
Xưng Gia Long, đổi nước về Việt Nam (1804)
Và rồi Pháp đến miền Nam (1858)
Xâm chiếm Sài Gòn, 3 tỉnh miền Đông
Chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây
Chiếm nốt miền Bắc hòng xây cơ đồ
Áp đàn nổi loạn cần vua
Đến nhà vua Pháp cũng xua đi đày
Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân
Vua yêu nước, được lòng dân chịu cùm
Biết bao khởi nghĩa vùng lên
Nhằm đuổi Pháp khỏi Việt Nam bấy giờ
Phong trào Yên Thế (1885-1913) – Thám Hoa (Hoàng Hoa Thám – Trương Văn Nghĩa)
Dù bại vẫn để tiếng cho muôn đời
Duy Tân (Phan Bội Châu) rồi với Đông Du (Phan Chu Trinh)
Tinh thần yêu nước vẫn chưa mất mòn
Rồi Nhật Bản đến Đông Dương (1940)
Cùng Pháp xâm chiếm coi thường dân Nam
Đầu năm 1945
2 triệu người Việt đói ăn chết mòn
Là năm lịch sử tang thương
Việt Nam hỗn loạn nhiễu nhương giặc thù
Việt Minh nhờ có Bác Hồ
Cách Mạng tháng 8 (1945) bài thơ tưng bừng
Mồng 2 tháng 9 Ba Đình
Nước Việt Nam được khai sinh cộng hòa
Đỏ vàng sao lá quốc kì
Thay cho cờ đỏ quẻ Ly thủa nào (6-8.1945)
Thế rồi Mỹ cũng nhảy vào (1950)
Cùng Pháp thua trận chiến hào Điện Biên (1954)
Mỹ thầm chia cắt 2 miền
Gây ta nội chiến khích hiềm (tự) giết nhau
Việt Nam hai nửa thương đau
Câu hò bên bến (Hiền Lương) còn đau tới giờ
Bên này vĩ tuyến (17) là cha
Bên kia vĩ tuyến – con: xa quá chừng
Và rồi Giải phóng miền Nam (30.4.1975)
Thống nhất đất nước giang san mọi miền
Chiến tranh xa, vẫn chưa quên
Bao xuân đẫm máu chưa liền vết thương
Hòa bình, cơ chế thị trường
Những cuộc chiến khác đau thương vẫn còn
Ta nghèo, ta nhỏ bé hơn
Không mạnh quân sự cố nên mạnh đầu
Nghìn năm cân não đong nhau
To chưa chắc thắng được đâu. Đã từng.
NGÔ VŨ THU HẰNG